Thiết kế HMS_Indomitable_(1907)

Những chiếc trong lớp Invincible chính thức được biết đến như những tàu tuần dương bọc thép cho đến năm 1911 khi chúng được xếp lớp lại như những tàu chiến-tuần dương theo một quyết định của Bộ Hải quân vào ngày 24 tháng 11 năm 1911. Cho đến lúc đó, một số tên gọi không chính thức được sử dụng, như là tàu tuần dương-thiết giáp (cruiser-battleship), tàu tuần dương dreadnought (dreadnought cruiser) hay tàu tuần dương-chiến trận (battle-cruiser).[2]

Các đặc tính chung

Indomitable lớn hơn đáng kể so với những chiếc tàu tuần dương bọc thép thuộc lớp Minotaur dẫn trước. Nó có chiều dài chung 567 ft (172,8 m), mạn thuyền rộng 78,5 ft (23,9 m), và độ sâu của mớn nước là 30 ft (9,1 m) khi đầy tải nặng. Con tàu có trọng lượng choán nước là 17.290 tấn Anh (17.570 t), và lên đến 20.700 tấn Anh (21.000 t) khi đầy tải nặng, hơn 3.000 tấn Anh (3.000 t) so với các con tàu trước đó.[3]

Động lực

Indomitable có hai bộ turbine Parsons dẫn động trực tiếp đặt trong các phòng động cơ riêng biệt. Mỗi bộ bao gồm một turbine áp lực cao phía trước và phía sau dẫn động trục phía ngoài, cùng một turbine áp lực thấp phía trước và phía sau dẫn động trục phía trong. Một turbine chạy đường trường cũng được nối vào mỗi trục phía trong, cho dù chúng ít khi được sử dụng và cuối cùng được tách rời. Trục phía trong dẫn động một chân vịt ba cánh đường kính 10 foot 6 inch (3,20 m), trong khi chân vịt của trục phía ngoài có đường kính 9 foot 6 inch (2,90 m). Các turbine được cung cấp hơi nước bởi 31 nồi hơi ống nước Babcock and Wilcox bố trí trong bốn phòng nồi hơi,[4] và được thiết kế để cung cấp một công suất tổng cộng 41.000 mã lực càng (31.000 kW), nhưng đã đạt đến 48.000 shp (36.000 kW) trong các cuộc chạy thử máy vào năm 1908. Tốc độ thiết kế là 25 hải lý một giờ (46 km/h), nhưng đã đạt đến 26,1 hải lý một giờ (48 km/h) khi chạy thử máy.[5] Indomitable đã duy trì được một tốc độ trung bình 25,3 hải lý một giờ (47 km/h) trong ba ngày trong một chuyến đi vượt Đại Tây Dương vào tháng 8 năm 1908.[6]

Indomitable mang theo tối đa 3.083 tấn Anh (3.132 t) than, và thêm 713 tấn Anh (724 t) dầu đốt để phun vào than nhằm gia tăng tốc độ cháy.[7] Ở trữ lượng nhiên liệu tối đa, tầm xa hoạt động của nó là 3.090 hải lý (5.720 km) ở tốc độ 10 hải lý một giờ (12 mph; 19 km/h).[8]

Vũ khí

Indomitable mang theo tám khẩu pháo BL 12 in (300 mm) Mark X đặt trên bốn tháp pháo nòng đôi vận hành bằng thủy lực. Dàn pháo hạng hai bao gồm mười sáu khẩu QF 4 in (102 mm) Mk III, được bố trí trên cấu trúc thượng tầng và trên nóc các tháp pháo trên các bệ mở. Trong đợt tái trang bị vào năm 1915, các khẩu trên nóc tháp pháo được chuyển sang cấu trúc thượng tầng, và số lượng bị giảm còn mười hai khẩu; tất cả các khẩu pháo còn lại được đặt trong các tháp pháo ụ và được bổ sung các bệ chắn nhằm bảo vệ các pháo thủ khỏi thời tiết hay hoạt động của đối phương.[9] Các khẩu pháo này được thay bằng mười hai khẩu BL 4 in (102 mm) MK IX trên các bệ CPI vào năm 1917.[10]

Vũ khí phòng không của nó bao gồm một khẩu QF 3 inch 20 cwt duy nhất trên bệ MkII góc cao bố trí ở đầu cuối của cấu trúc thượng tầng, được trang bị từ tháng 7 năm 1915. Một khẩu pháo Hotchkiss 3-pounder trên bệ Mk Ic góc cao với góc nâng tối đa 60 °Cũng được trang bị vào tháng 11 năm 1914 và được sử dụng cho đến tháng 8 năm 1917. Sau này một khẩu BL 4 in (102 mm) MK VII được bổ sung cho Indomitable vào tháng 4 năm 1917 như là vũ khí phòng không; nó được bố trí trên bệ Mk II góc cao với góc nâng tối đa lên đến 60°. Năm ống phóng ngư lôi ngầm 17,7 inch (450 mm) được trang bị cho Indomitable, gồm hai ống mỗi bên mạn và một ống phía đuôi,[8] và nó mang theo 14 quả ngư lôi.[10]

Vỏ giáp

Vỏ giáp bảo vệ của Indomitable mạnh hơn đáng kể so với những chiếc tàu tuần dương lớp Minotaur. Đai giáp chính ở mực nước dày đến 6 inch (152 mm) ở khoảng giữa tàu giữa các tháp pháo 12 inch phía mũi và phía đuôi, nhưng được vuốt mỏng còn 4 inch (102 mm) từ tháp pháo phía trước đến mũi, nhưng không kéo dài quá tháp pháo đuôi. Tháp pháo và bệ tháp pháo được bảo vệ bởi lớp giáp dày 7 in (178 mm), ngoại trừ nóc tháp pháo sử dụng vỏ giáp Krupp KNC dày 3 inch (76 mm). Độ dày vỏ giáp cho sàn tàu chính dày 1–2 in (25–51 mm), và của sàn dưới là 1,5–2,5 in (38–64 mm)[Chuyển đổi: Số không hợp lệ]. Vách ngăn chống ngư lôi bằng thép carbon dày 2,5 inch (64 mm) được đặt ngang các hầm đạn và phòng đạn pháo.[11]

Kinh nghiệm trong chiến tranh bộc lộ qua trận Jutland cho thấy sự mong manh của nó đối với đạn pháo bắn tới. Vì vậy vỏ giáp bổ sung được tăng cường cho khu vực hầm đạn và nóc tháp pháo. Độ dày chính xác không được nói đến, nhưng rất có thể trọng lượng tổng cộng không vượt quá 100 tấn Anh (102 t).[12]